Hồi Ức Của Một Thiên Tài Đầu Tư Chứng Khoán
Hồi Ức Của Một Thiên Tài Đầu Tư Chứng Khoán
Log in to download this book.
Publisher | LAO ĐỘNG - XÃ HỘI |
---|---|
Accessible book producer | Public domain |
Published year | 2007 |
Coppy right | NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG - XÃ HỘI |
Vào cuối những năm 1970, khi tôi đang tìm kiếm một công việc trong ngành báo chí, tờ Thời báo phố Wall đã thuê tôi phụ trách mảng thị trường kim loại đồng. Công việc của tôi là theo dõi những nhà giao dịch các hợp đồng mua bán đồng trên thị trường và sau đó viết báo cáo về những dao động hàng ngày. Đó là thời kỳ tỉ lệ lạm phát đang ở mức cao và giá đồng cũng nằm trong xu hướng đó. Dưới con mắt quan sát cẩn thận của một người chưa hề được đào tạo như tôi, tôi nhận thấy rằng giá đã tăng từ 80 xu lên 90 xu và cuối cùng là một đô-la một cân (1 cân Anh = 454g). Sau khi phát hiện ra những nguồn tin mới ngay lập tức tôi làm báo cáo rằng giá đồng tăng lên là do “có nhiều người mua hơn người bán.”
“Người mua nhiều hơn người bán!” vị sếp của tôi cười lớn. Ông luôn là một người hài hước và sắc sảo; Ông luôn nhìn thấy sự hài hước trong mọi việc, đặc biệt là đối với người phóng viên mới này. “Công việc của anh là cho chúng tôi biết tại sao lại có nhiều người bán hơn người mua.”
Đây dường như một lời khuyên thẳng thắn đã đưa tôi vào mê cung của những nhà giao dịch, trong đó mọi thứ đều hầu như chỉ dựa vào sự phỏng đoán nếu không muốn nói là do tưởng tượng. Một ngày kia, tôi được người ta nói cho biết rằng sự tăng giá (hay giảm giá) do những “nhà đầu tư” khởi xướng có thể suy đoán được xu hướng của tương lai. Một ngày khác, sự thay đổi giá cả lại được gán cho những “nhà đầu cơ”. Đặc biệt hơn nữa, giá cả có thể biến động do những “nguyên nhân kỹ thuật”. Trong những trường hợp đó, người ta nói rằng cho dù nguyên nhân nào thì nó cũng không mấy quan trọng. Tuy nhiên, giá vẫn tăng lên?
Giá đồng vượt quá mức 1,5 đô-la và trong suốt quá trình tăng giá, nó không chịu ảnh hưởng gì từ những nguyên nhân như trên đây. Tôi biết rằng trong những phân tích của mình có cái gì đó không ổn, nhưng tôi không biết đó là yếu tố nào. Vấn đề ở đây là do thiếu sự chuẩn bị chu đáo. Tôi chưa được đọc cuốn Hồi ức của một thiên tài đầu tư chứng khoán của Ledwin Lefèvre, do đó tôi không biết cách viết như thế nào về các thị trường hàng hoá, thị trường chứng khoán hay bất cứ thị trường nào khác.
Nếu tôi được đọc cuốn sách này, tôi đã có thể hiểu được rằng bảng tin có sức mạnh thuyết phục hơn bất kì lý lẽ hay những lời hứa hẹn, tuyên thệ nào. Bạn không thể tranh luận với bảng tin, bạn không phải giải thích về nó hay tìm cách phá hoại nó. Và tôi đã có thể đọc được đoạn văn như sau:
Tất nhiên những sự dao động giá cả luôn có lý do của nó, nhưng bảng tin bản thân nó không quan tâm tới những lý do của sự dao động đó. Nó không đưa ra những lời giải thích. Tôi không bao giờ đặt ra câu hỏi với bảng tin khi tôi 14 tuổi và bây giờ khi tôi đã 40 tuổi, tôi cũng không bao giờ làm như vậy. Điều đó thì có ý nghĩa gì chứ?
Tác giả của những dòng viết này, con trai của một sĩ quan quân đội, được đào tạo để trở thành một kỹ sư mỏ nhưng theo tiếng gọi của lòng đam mê, vào những năm 1890, ông đã chuyển sang viết về những thương vụ diễn ra tại phố Wall. Mặc dù thời đó cũng như bây giờ, công chúng luôn mong muốn khám phá những ẩn khuất diễn ra trong thị trường chứng khoán, nhưng vào giai đoạn đó thông tin còn rất hạn chế. Lefèvre là một nhà văn kiêm nhà báo, luôn có sở trường trong trong việc nắm bắt những âm thanh hình ảnh diễn ra ngay tại thị trường phố Wall. Năm 1922, ông tạo nên một cơn chấn động với câu chuyện được đăng nhiều kỳ về một nhà đầu cơ chứng khoán nổi tiếng – hay cũng có thể nói là đáng hổ thẹn - người đã tiết lộ những bí mật của công việc giao dịch cho độc giả của tờ báo The Saturday Evening Post. Câu chuyện của ông ta đã được tái bản thành sách sau đó một năm.
Mặc dù Lefèvre viết cuốn sách này dưới ngôi thứ nhất, nhưng cuốn hồi ký được dựa trên một số cuộc phỏng vấn với nhà giao dịch mà ông gọi là Larry Livingston. Livingston không thực sự tồn tại; đó chỉ là một tên gọi khác của Jesse Livermore, một trong những nhà đầu cơ chứng khoán vĩ đại nhất mọi thời đại.
Livermore khởi đầu sự nghiệp vào cuối thế kỷ trước với một công việc có đồng lương còm cõi tại một công ty mua bán cổ phiếu chui, do những người chủ không thể tạo một tài khoản tại các công ty môi giới tham gia vào những thương vụ quy mô nhỏ. Công ty này đã đuổi việc ông do một “sai phạm” là thường xuyên giành chiến thắng. Đến cuối Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, Livermore kiếm được và cũng đã mất hàng triệu đô-la, đồng thời bị cáo buộc là thủ phạm của tất cả các vụ khủng hoảng trên thị trường chứng khoán hay thị trường hàng hoá, mặc dù không phải không có lý do.
Mặc dù ông đóng vai trò hàng đầu trong vụ sụp đổ thị trường năm 1929, trước khi sự nghiệp của ông kết thúc quá sớm trong bi kịch, song cuốn hồi ký chỉ tiểu thuyết hoá những ký ức về thời kỳ đầu và cũng là những năm tháng thành công của Livermore. Bạn không nên đặt câu hỏi phần nào là thực, phần nào là hư cấu; Livermore chính là một trong những nhân vật độc đáo của nước Mỹ mà mỗi sự hư cấu (đặc biệt là dưới ngòi bút tài năng của Lefèvre) chỉ tăng thêm vẻ thật trong mỗi câu chuyện của ông.
Và như vậy chúng ta sẽ được theo dõi một lời tự thú về công việc của những nhà giao dịch trong giai đoạn trước khi Luật Chứng khoán Liên bang ra đời; về những ngươi cung cấp tin nội bộ; về công việc vận động làm giá, những cố gắng không mệt mỏi của những vị giám đốc tìm cách thao túng cổ phiếu của chính họ và luôn được biết những thông tin quan trọng trước công chúng. Giờ đây, gọi cuốn hồi ký này là chân dung của “một giai đoạn của thị trường chứng khoán đã không còn tồn tại nữa.” Điều này vừa đúng lại vừa không đúng. Bản chất của con người không thay đổi nhiều từ thời Lefèvre và cả những nguyên tắc đạo đức của những người bị thu hút tới phố Wall nhằm tìm kiếm một nguồn lợi nhuận dễ dàng cũng vậy. Khi Lefèvre trong nhân vật Livingston quan sát rằng “trong những đợt bùng nổ thị trường nhiều công ty được thành lập vì lý do chủ yếu, nếu không muốn nói là chỉ với một mục đích duy nhất, đó là nhằm kiếm lợi từ nhu cầu cổ phiếu của công chúng”, chúng ta sẽ nghĩ tới không ít những kẻ vụ lợi trong thời đại hiện nay (ví dụ như những người khởi xướng các công ty dot.com).
Tuy nhiên, những ngôn ngữ nhân vật của ông sử dụng thực sự thuộc về những năm 20 ồn ã của thế kỷ trước. Livingston tại thành phố Atlantic, khi nghỉ ngơi và tách khỏi thị trường chứng khoán, hoàn toàn có thể trở thành một tay ham mê đua ngựa tại trường đua Damon Runyon.
Một buổi sáng sau khi ăn sáng và đọc xong các tờ báo của New York, và sau khi đã chán ngồi xem đám chim mòng biển nhặt những chú sò, ngậm chặt chúng bay lên cao hai mươi foot và ném xuống nền cát để kiếm một bữa sáng, chúng tôi bắt đầu đi dạo lên phố Broadwalk… Anh em nhà Harding có một chi nhánh tại Broadwalk và chúng tôi thường ghé qua đó mỗi buổi sáng xem họ mở cửa. Đó chỉ là một thói quen mà thôi…
Điều này cho thấy Livingston luôn có niềm đam mê đối với công việc giao dịch và chỉ cần thị trường có một động thái khác thường nào đó.
Tôi đang theo dõi bảng báo giá các loại cổ phiếu, chú ý tới những mã có thay đổi. Phần lớn giá đều tăng lên. Bỗng nhiên tôi chú ý tới Union Pacific. Tôi có cảm giác rằng mình cần bán ra số cổ phiếu này. Tôi không thể nói gì hơn. Tôi chỉ cảm thấy cần phải bán ra.
Mọi việc đều có lí do của nó. Nhưng ít nhất chúng ta có thể đề cập tới ở đây hai lý do. Thứ nhất đó là tính cá nhân. Kể từ sau khi chia tay với công việc theo dõi thị trường kim loại đồng, trong phần lớn sự nghiệp của mình tôi đã theo đuôi những nhà buôn tài chính, những người chúng ta có thể nói không hề thánh thiện gì thậm chí đôi lúc rất gian xảo. Phần lớn họ đều giấu mình sau những kẻ phát ngôn đã được thuê từ trước (và sau đó là sau lưng các luật sư của họ). Họ thường chỉ đưa ra một nhận xét được xử lý rất khéo léo hay đôi khi chẳng có nhận xét nào cả.
Livingston mặc dù được thừa nhận chỉ là một hình tượng văn học nhưng qua đó tác giả đã nói thẳng thắn với chúng ta. Ông đã chỉ mặt đặt tên những nhân vật rất cụ thể. Chẳng phải đã có một vị chủ tịch của Borneo Tin Company, một ông Wisenstein nào đó đã nói với vợ của Livingston trong một bữa tiệc tại Palm Beach rằng bà ta có thể kiếm được một khoản kha khá nếu mua cổ phiếu của ông ta? Cuốn hồi ký của Livingston đã phơi bày tất cả những cám dỗ của tình trạng tham nhũng lan tràn tại phố Wall trong những ngày chưa được quản lý chặt chẽ, nhiều hơn bất kì nguồn thông tin nào khác, chứ không nói đến bất kì ấn phẩm nào nào khác.
Phản ứng của Livingston đối với lời “tiết lộ” này, chúng ta sẽ không nhắc tới ở đây, nhưng cần nhận thấy rằng Livingston đã chuẩn bị trước cho chúng ta về nhân vật của bối cảnh đó. Một ông Weisenstein nào đó cũng chính là giám đốc một tổ hợp đầu cơ. Điều đó có nghĩa là một vị chủ tịch tập đoàn cũng đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động trên thị trường chứng khoán (việc này hiện nay được coi là phi pháp) đang tìm cách thao túng làm giá cho chính cổ phiếu của công ty đó! Khi công chúng bắt đầu chỉ trích về những quy định đang tồn tại khi đó thì chúng ta cần đặt ra câu hỏi rằng những “ngày xưa tươi đẹp” đó có thật sự tươi đẹp không?
Livingston cũng không hề phải hổ thẹn khi nhớ lại những chiến dịch vận động làm giá của chính mình. Tôi chưa từng nghĩ rằng người ta có thể, thông qua việc mua vào một cách đúng lúc và có tính toán cẩn thận, mang về những khoản lợi nhuận khổng lồ do đẩy giá của một cổ phiếu nào đó lên trong khi phân phối lại số cổ phiếu đó. Livingston coi trò lừa đảo tại hãng Imperial Steel là một “nghệ thuật vận động làm giá tuyệt vời” khi ông ta tự cho phép được tán dương công việc của chính mình. Có thể ông ta đã có chút gì đó muốn tự bảo vệ cho bản thân mình khi cho rằng việc vận động làm giá không có gì là xấu và cho rằng không có gì lừa lọc hay lén lút trong đó. Đó là một cuộc chơi đòi hỏi sự dũng cảm, tuy nhiên trong những phương pháp do ông đề nghị nhằm làm trong sạch thị trường chứng khoán, nhiều ý trong đó cũng tương đồng với luật chứng khoán được ban hành ngay sau đó, đã đi ngược lại điều này. Nhưng suy cho cùng, chúng ta cũng được nghe chính một nhà đầu cơ chứng khoán chuyên nghiệp thổ lộ những mưu đồ của chính mình.
Một lý do khác mà bạn nên đọc tác phẩm của Lefèvre đó là kèm trong những giai thoại của mình, ông đã đưa ra những lời khuyên rất quý báu mà bất cứ nhà giao dịch nào cũng có thể tìm thấy điều gì đó có ích. Bản thân tôi không phải là một nhà giao dịch, nhưng tôi thừa nhận rằng nếu chỉ theo dõi những điều diễn ra trên bảng thông báo thì nó chỉ dẫn tới một con đường tất yếu, đó là mua đắt bán rẻ. Tất nhiên, Livingston cũng nhận ra mối nguy hiểm này, và bạn có thể tìm thấy câu trả lời của ông tại đây. Ông cũng nhận thấy rằng những điều ông làm hoàn toàn khác với việc đầu tư thuần tuý. Các nhà đầu cơ mua vào theo xu thế còn những nhà đầu tư luôn có những tính toán dài hạn, họ có những mục tiêu hoàn toàn khác nhau. Một lý do khiến ngày nay người ta vẫn tự làm mất tiền của mình, đó là họ đã không thể phân biệt được sự khác nhau này. Họ luôn đinh ninh trong đầu rằng mình đầu tư dài hạn nhưng sau đó họ không thể từ chối nhưng cám dỗ của việc kiếm được một khoản lợi nhuận nhanh chóng. Livingston không có những ảo tưởng như vậy, ông vẫn luôn là một nhà đầu cơ từ đầu đến cuối. Tuy nhiên, một điều đáng ngạc nhiên là những phẩm chất đã giúp ông thành công cũng chính là những phẩm chất của một nhà giao dịch chứng khoán vĩ đại. Đó chính là tính kiên nhẫn, tính kỷ luật và một trí óc suy xét độc lập. Một người có thể nổi giận với bảng tin, nhưng ngược lại bảng tin không hề quan tâm tới những điều như vậy. Livingston cho rằng tốt hơn hết nên học từ những sai lầm thay vì cố gắng ngăn bản thân không mắc phải sai lầm. Đặc điểm nổi bật nhất ở ông đó là sự tự ý thức được về bản thân. Trong cờ bạc cũng như trong thể thao, kẻ thù nguy hiểm nhất chính là con quỷ trong bản thân mỗi người.
Bạn có thể cho rằng một nhà đầu cơ luôn thèm thuồng những nguồn tin nội bộ - Livingston gọi đó là “món cocktail hy vọng” – nhưng ông ta lại khuyên chúng ta (và chính bản thân ông) nên kiềm chế bản thân trước sự cám dỗ đó. Điều này thể hiện sự đánh giá của ông đối với triết lý chung của thị trường. Nếu một người thích một cổ phiếu nào đó, thì nó phải thể hiện ưu thế rõ ràng trên bảng tin, nếu không nguồn tin nội bộ đó chỉ là một nguồn sai lệch. Công chúng luôn mong chờ những nguồn tin nội bộ, họ mong có một ý kiến tư vấn nào đó. Nhưng Livingston vẫn luôn tự tin mà nói rằng “tôi luôn làm việc độc lập.”
Tất nhiên, điều đó đúng trong phần lớn thương vụ của ông. Một lần tại Saratoga Springs, một trong những khu nghỉ dưỡng nơi ông thường lui tới để làm ra vẻ đang đi nghỉ, Livingston đã bán một cổ phiếu mà ông đang tích luỹ (một lần nữa đó là Union Pacific) dựa trên nguồn tin nội bộ của một nhà môi giới. Nguồn tin này sau đó hoá ra là sai lầm. Đó là một sai lầm phải trả giá đắt - một bài học đáng giá cho ông ta cũng như cho chính chúng ta. Người thầy đáng thương của chúng ta cho thấy rằng ông ta có thể học được những bài học như vậy với cái giá rẻ hơn nhiều. “Nhưng thần định phận không phải lúc nào cũng cho bạn quyết định số “học phí” phải bỏ ra. Vị thần tự đưa ra những bài học và sau đó tự mình ghi hoá đơn.” Thật may mắn rằng vị thần định phận đã cho chúng ta một bài học với cái giá thấp hơn nhiều. Và đó chính là những gì các bạn có thể tìm thấy trong cuốn hồi ký này, một cuốn hồi ký trong đó với một phong cách kể chuyện lôi cuốn, Lefèvre đã cuốn hút rất nhiều người đam mê chứng khoán đến với những câu chuyện về một thị trường hết sức khô khan của những con số tăng giảm.
Roger Lowenstein